Việt Nam luôn khẳng định chính sách nhất quán được quy định tại Điều 3, Hiến pháp 2013: “Nhà nước bảo đảm và phát triển quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển bản thân”.
Tuy nhiên, thời gian
qua, một số nước phương Tây đã đưa ra các đánh giá, nhận định không đúng về
quyền con người ở Việt Nam, khi cho rằng chúng ta vi phạm nhân quyền. Các nước
phương Tây cho rằng “quyền con người không có biên giới quốc gia”. Đây là một
cách che giấu mưu đồ quốc tế hoá các vấn đề nhân quyền, mở đường can thiệp vào
công việc nội bộ, chủ quyền quốc gia của chúng ta. Vì thế, nhận diện và đấu
tranh bác bỏ quan điểm sai trái này cần được đặc biệt coi trọng trong cuộc đấu
tranh tư tưởng, lý luận, không chỉ vì hình ảnh, uy tín của Việt Nam trên trường
quốc tế, mà còn vì chân lý, lẽ phải luôn thuộc về chúng ta.
Một số nước phương Tây tuyệt đối hóa
tính phổ biến, phổ quát của quyền con người, phủ định hoặc cố tình “lờ đi” tính
đặc thù của quyền con người, ra sức cổ vũ cho cái gọi là “quyền con người không
có biên giới quốc gia”, “nhân quyền phổ biến chỉ có một, bất kỳ quốc gia nào
cũng đều cần phải tuân thủ tiêu chuẩn thống nhất về quyền con người”. Không chỉ
dừng lại ở việc nêu lên quan điểm, một số nước phương Tây còn dựa trên “tiêu
chuẩn” chủ quan của mình để kêu gọi việc thiết lập cơ chế cần thiết nhằm đánh
giá việc thực hiện quyền con người của nước khác. Chẳng hạn, Quốc hội Mỹ đã ra
nghị quyết yêu cầu Chính phủ Mỹ hằng năm phải đệ trình báo cáo tình hình nhân
quyền của các nước trên thế giới. Trước tiên, cần khẳng định rằng, quyền con
người là một trong những vấn đề thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế hiện
nay. Tuy nhiên, dù vấn đề quyền con người có tính phổ biến, có điểm chung ở mức
độ nhất định, nhưng không thể coi nhẹ hoặc phủ nhận tính đặc thù của nó. Mặt
khác, cơ chế hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quyền con người cũng không được
vượt qua chủ quyền quốc gia. Quan điểm “quyền con người không có biên giới quốc
gia” là phi lý, cần phải đấu tranh, bác bỏ, sở dĩ như vậy là vì:
Một là, các nước
phương Tây đưa ra tiêu chuẩn phổ biến về quyền con người là không hiện thực,
thậm chí là lừa bịp. Sự phát triển và cải thiện về quyền con người luôn tùy
thuộc vào những điều kiện cụ thể ở từng quốc gia - dân tộc. Do sự khác nhau về
điều kiện của từng quốc gia nên không thể có tiêu chuẩn thống nhất về quyền con
người mà các quốc gia cần phải tuân thủ. Cho đến nay vẫn chưa có tiêu chuẩn về
quyền con người được quốc tế công nhận. Ngay kể cả đối với khái niệm hoặc định
nghĩa về quyền con người, giới nghiên cứu pháp luật nói chung, pháp luật quốc
tế nói riêng cũng chưa đưa ra được một định nghĩa thống nhất.
Hai là, nguyên tắc
tính phổ biến của quyền con người cần được quy chiếu với điều kiện cụ thể và
thực tiễn của từng nước nhằm bảo đảm kết hợp hài hòa giữa tính phổ biến và tính
đặc thù. Những quan điểm và nội dung cốt lõi về quyền con người mà cộng đồng
quốc tế thừa nhận và có sự đồng thuận là điều chúng ta cần tôn trọng, nhất là
khi điều này có ý nghĩa tích cực đối với việc phát triển con người. Chúng ta
không phủ nhận giá trị phổ biến về quyền con người, nhưng điều kiện, tình hình
của từng nước rất khác nhau, việc thực hiện quyền con người không thể tránh
khỏi sự chế ước của điều kiện kinh tế - xã hội. Việc nhìn nhận thực trạng quyền
con người của một quốc gia cần phải theo quan điểm lịch sử - cụ thể và quan
điểm phát triển, không được coi nhẹ đặc điểm khác nhau giữa các quốc gia, không
lấy tiêu chuẩn và giá trị của nước mình áp đặt cho nước khác. Trên thực tế,
Việt Nam đã kết hợp tốt nguyên tắc tính phổ biến và tính đặc thù về vấn đề
quyền con người. Điều này thể hiện rõ nét ở việc Việt Nam tham gia hầu hết các
điều ước quốc tế về quyền con người.
Ba là, quyền con
người bị giới hạn bởi chủ quyền quốc gia và pháp luật quốc gia. Một số hành vi
ảnh hưởng đến hòa bình của thế giới và không có lợi cho việc bảo đảm quyền con
người, như khủng bố quốc tế, xâm lược vũ trang, đe dọa môi trường sinh thái,...
cần phải bị lên án và đấu tranh, cộng đồng quốc tế cần sử dụng biện pháp tích
cực để ngăn chặn. Tuy nhiên về bản chất, quyền con người là một vấn đề thuộc
chủ quyền quốc gia, cần phải được bảo đảm bởi pháp luật quốc gia. Do vậy, chỉ
khi thông qua pháp luật và nghĩa vụ quốc gia thì các điều ước quốc tế về quyền
con người mới có thể thực hiện hiệu quả.
Bốn là, cơ chế bảo vệ của quốc tế về
quyền con người được thực hiện với điều kiện và phạm vi nhất định. Một số nước
phương Tây nỗ lực đưa vấn đề quyền con người vào các cơ chế của quan hệ quốc
tế, hơn nữa đưa ra luận điệu “không can thiệp vào nội bộ là không thích hợp với
vấn đề quyền con người”,... chính là biểu hiện điển hình của chính trị cường
quyền. Hiến chương Liên hợp quốc chỉ đưa ra những nguyên tắc thông thường nhằm
thúc đẩy chính phủ các nước không ngừng cải thiện quyền con người, mà không đưa
ra nghĩa vụ mang tính chế ước đối với các nước thành viên; đồng thời, quy định
rõ nếu chưa được sự trao quyền của Liên hợp quốc thì bất cứ quốc gia thành viên
nào cũng không được nhân danh quyền con người để can thiệp vào công việc nội bộ
của nước khác. Điều đó cho thấy, việc một số nước phương Tây tự ý đưa ra tiêu
chuẩn nhân quyền, rồi mưu toan sử dụng sức ép quốc tế để can thiệp vào công
việc nội bộ của nước khác là không thể chấp nhận được.
Năm là, hợp tác quốc
tế về quyền con người chỉ được thực hiện dựa trên nguyên tắc tôn trọng chủ
quyền của các nước, không can thiệp vào công việc nội bộ cũng như thông qua cơ
chế đối thoại. Phát triển và thúc đẩy quyền con người một cách đầy đủ là mong
muốn của cộng đồng quốc tế hiện nay. Việc hợp tác và đối thoại giữa các quốc
gia để thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là một yêu cầu cần thiết và khách
quan. Việt Nam ủng hộ việc tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quyền con
người trên cơ sở đối thoại bình đẳng, xây dựng, tôn trọng và hiểu biết lẫn
nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, vì mục tiêu chung là thúc
đẩy và bảo vệ ngày càng tốt hơn các quyền con người.
Sáu là, chỉ khi kết hợp đồng thời giữa
thúc đẩy quyền con người với duy trì hòa bình trên thế giới gắn với phát triển
kinh tế - xã hội mới có thể đạt được tiến bộ thực chất trên lĩnh vực quyền con
người. Không có môi trường quốc tế hòa bình, ổn định, không có một trật tự kinh
tế quốc tế hợp lý, công bằng thì không thể thực hiện được quyền con người phổ
biến.
Bảy là, sự khác nhau
giữa lời nói và việc làm trên lĩnh vực quyền con người của Mỹ. Mỹ tự cho mình
cái quyền đánh giá, chỉ trích mức độ bảo đảm quyền con người của các nước khác,
song chính nội bộ nước Mỹ lại tồn tại những vấn đề nghiêm trọng về quyền con
người. Đơn cử như, năm 2021, ở Mỹ đã xảy ra 693 vụ xả súng (tăng 10,1% so với
năm 2020), khiến hơn 44.000 người thiệt mạng. Cũng trong năm 2021, 9 tiểu bang
của Mỹ đã đề xuất hơn 420 dự luật nhằm hạn chế việc bỏ phiếu của cử tri; chỉ 7%
thanh niên Mỹ tin rằng hệ thống dân chủ Mỹ vẫn “lành mạnh”. Tại biên giới phía
Nam, Mỹ đã giam giữ hơn 1,7 triệu người nhập cư, trong đó có 45.000 trẻ em. Một
mặt, Mỹ nhấn mạnh tính phổ biến của quyền con người; mặt khác, Mỹ lại từ chối
ký kết và tham gia nhiều điều ước quốc tế về quyền con người, như Công ước quốc
tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân
biệt đối xử với phụ nữ, Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em, Công ước
quốc tế về quyền của người khuyết tật...
Tám là, việc các nước
phương Tây nhấn mạnh cái gọi là “quyền con người không có biên giới quốc gia”
thực chất là nhằm phục vụ lợi ích kinh tế, chính trị của các nước phương Tây.
Quan điểm này không có giá trị gì cho việc thúc đẩy quyền con người ở trên thế
giới, cần kiên quyết đấu tranh, bác bỏ.
Có thể khẳng định, với những gì thực tế
đang diễn ra, nước ta vẫn luôn là một nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích là vì
dân. Tôn trọng và bảo đảm quyền con người là quan điểm nhất quán và xuyên suốt
của Đảng và Nhà nước ta. Quyền con người luôn là quyền cơ bản và quan trọng
nhất, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Do đó,
nhận diện, vạch trần và kiên quyết đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái,
thù địch về thành tựu bảo đảm quyền con người có ý nghĩa quan trọng, góp phần
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo đảm ổn định và sự phát triển bền vững
của Việt Nam hiện nay./.
VTK-H1
0 nhận xét:
Đăng nhận xét