CHÀO MỪNG ĐẾN VỚI BLOG GIỮ TRỌN LỜI THỀ

Thứ Hai, 19 tháng 9, 2022

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHƯƠNG PHÁP VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN

  

Thuật ngữ phương pháp có nguồn gốc từ nguyên từ Hi Lạp cổ - Methodos với nghĩa là con đường, cách thức, thủ đoạn mà chủ thể sử dụng để đạt được mục đích đề ra. Còn theo nghĩa chặt chẽ, khoa học, phương pháp là hệ thống những nguyên tắc được rút ra từ tri thức về các qui luật khách quan để điều chỉnh hoạt động nhận thức và thực tiễn nhằm thực hiện những mục đích nhất định.

Phương pháp là một đặc trưng tất yếu của hoạt động có mục đích, có ý thức của con người; nhưng phương pháp không phải là cái gì đó có sẵn hay hình thành một cách chủ quan, mà nó mang tính khách quan. Ph. Ăngghen viết: “các nguyên lý không phải là điểm xuất phát của sự nghiên cứu mà là kết quả cuối cùng của nó; những nguyên lý ấy không phải được ứng dụng vào giới tự nhiên và vào lịch sử loài người, mà được trừu tượng hoá từ giới tự nhiên và lịch sử loài người; không phải là giới tự nhiên và loài người phải phù hợp với các nguyên lý, mà trái lại các nguyên lý chỉ đúng trong chừng mực chúng phù hợp với giới tự nhiên và lịch sử”1. Trong thực tiễn ta thấy, sau khi đã xác định được mục tiêu thì phương pháp là yếu tố góp phần quyết định thành công hay thất bại của mọi hoạt động.

Phương pháp có nhiều loại và nhiều cấp độ khác nhau, tuỳ theo căn cứ xem xét.

- Căn cứ vào mức độ phổ biến và phạm vi sử dụng để phân chia ta có:

 Phương pháp riêng (áp dụng cho từng môn khoa học cụ thể, ví dụ như phương pháp toán học, xã hội học, lý học…)

Phương pháp chung (áp dụng đồng thời trong nhiều ngành khoa học khác nhau, ví dụ như phương pháp quan sát, thực nghiệm, mô hình hoá…)

 Phương pháp phổ biến (áp dụng của mọi lĩnh vực khoa học và thực tiễn - đó chính là phương pháp biện chứng duy vật trong triết học Mác - Lênin).

- Căn cứ vào mục đích, chức năng để phân chia có:

Phương pháp nhận thức (là cách thức, biện pháp sử dụng các giác quan và các thao tác tư duy để phản ánh các đối tượng, tìm ra bản chất, qui luật vận động, phát triển của đối tượng. Chẳng hạn, đó là các phương pháp quan sát, phân tích và tổng hợp, trừu tượng và cụ thể, lịch sử và lôgíc…) và

Phương pháp thực tiễn (hình thức, biện pháp sử dụng các phương tiện vật chất tác động làm biến đổi đối tượng. Ví dụ: phương pháp sản xuất, thực nghiệm, đấu tranh…). Tất nhiên, việc phân chia các loại phương pháp chỉ có ý nghĩa tương đối. Trong hoạt động cần phải biết vận dụng tổng hợp các phương pháp và căn cứ vào tình hình cụ thể và đặc điểm đối tượng mà xác định các phương pháp cho phù hợp, đạt hiệu quả cao.

Sự phát triển của thực tiễn và khoa học đã dẫn đến sự ra đời một lĩnh vực đặc thù của tri thức triết học và khoa học lý thuyết - đó là phương pháp luận

Phương pháp luận là một hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát, những cách thức chung để thực hiện hoạt động nhận thức và thực tiễn cùng với bản thân học thuyết về hệ thống đó.

Lưu ý: phương pháp luận không phải là tổng số những qui tắc tuỳ tiện do con người tạo ra, mà trái lại, nó luôn mang nội dung khách quan, phản ánh trình độ nhận thức và thái độ con người đối với các qui luật khách quan của hiện thực. Mọi khoa học đều thực hiện chức năng phương pháp luận nhưng mỗi khoa học, tuỳ theo từng trường hợp cụ thể, bên cạnh việc sử dụng phương pháp luận đặc trưng của mình lại có thể sử dụng các phương pháp luận của các khoa học khác trong hệ thống phương pháp luận khoa học nói chung.

- Phương pháp luận cũng được chia thành các cấp độ khác nhau:

Phương pháp luận bộ môn, là phương pháp luận đặc trưng cho một bộ môn khoa học cụ thể, nó chỉ đạo việc xác định các phương pháp cụ thể của bộ môn khoa học ấy. Ví dụ: phương pháp luận toán học (bao gồm hệ thống các nguyên tắc về tính chính xác, tính cân bằng giữa giả thiết và kết luận, tính có thể chứng minh và kiểm tra được kết quả…), phương pháp luận kinh tế (bao gồm hệ thống các nguyên tắc về tính hiệu quả, tính tự chủ trong sản xuất kinh doanh, nguyên tắc về sự tăng trưởng bền vững…).

Phương pháp luận chung, là phương pháp luận của một ngành (bao gồm nhiều bộ môn) hay một nhóm ngành (bao gồm nhiều ngành) khoa học có những đặc điểm chung nào đó giống nhau. Ví dụ, phương pháp luận của các khoa học xã hội, phương pháp luận của các khoa học tự nhiên, phương pháp luận của các khoa học kỹ thuật - công nghệ.

Phương pháp luận chung nhất là phương pháp luận triết học. Nó khái quát những quan điểm, nguyên tắc chung nhất làm xuất phát điểm cho việc xác định các phương pháp luận khoa học chung, phương pháp luận bộ môn và các phương pháp hoạt động cụ thể của nhận thức và thực tiễn.

Các loại phương pháp luận trên đây vừa độc lập tương đối với nhau, vừa bổ sung cho nhau, thâm nhập vào nhau để hợp thành một hệ thống khoa học về phương pháp, chỉ đạo chủ thể xác định đúng đắn các phương pháp cụ thể trong nhận thức và thực tiễn. Trong hệ thống đó, triết học đảm nhận chức năng phương pháp luận chung cho tất cả các khoa học cụ thể, kể cả khoa học quân sự. Những quan điểm, nguyên tắc xuất phát tạo thành phương pháp luận triết học sẽ được quán triệt vào các phương pháp luận còn lại, tạo thành cơ sở triết học của chúng.

ĐHQ-H2



1 C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H.1994, t.  20, tr. 54.

0 nhận xét: