Trong thời kỳ mở cửa, hội nhập quốc tế, Việt Nam đã thiết lập được nhiều mối quan hệ kinh tế quốc tế. Một trong những mối quan hệ kinh tế này là việc hợp tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Đây là vấn đề không chỉ riêng ở Việt Nam mà còn là xu thế chung của các quốc gia đang phát triển.
Thế nhưng, thời
gian gần đây, một số thế lực thù địch, cơ hội chính trị cố tình rêu rao, xuyên
tạc, đơm đặt những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong
việc tổ chức phối hợp đào tạo, đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Những
luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch hướng đến mục đích gây ra sự phân
tâm, lo lắng, hoài nghi về nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật của Việt Nam
đối với người lao động; làm giảm sự nhiệt huyết của người lao động có dự định
ra nước ngoài làm việc và công dân Việt Nam đang lao động ở nước ngoài; phủ nhận
mọi nỗ lực, kết quả của cơ quan chức năng Việt Nam trong công tác quản lý di
cư, bảo hộ công dân và mưu đồ đen tối hơn là nhằm hạ thấp vị thế, uy tín của Việt
Nam trên trường quốc tế.
Cách đây 11 năm,
Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI ban hành Chỉ thị số 16-CT/TW ngày 8-5-2012 về
“Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đưa người lao động và chuyên
gia Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài” xác định: Việc đưa người lao động và
chuyên gia Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài nhằm giải quyết việc làm, tạo thu
nhập, phân công lại lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng nguồn
thu ngoại tệ và góp phần phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Chủ trương của Nhà
nước Việt Nam là không đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài bằng mọi
giá, mà phải bảo đảm hỗ trợ, tạo điều kiện để người lao động ra nước ngoài làm
việc cũng như sau khi về nước có vị trí làm việc phù hợp. Người lao động được tự
do lựa chọn hình thức làm việc phù hợp, không bị ép buộc phải làm việc trái ý
muốn. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam thông qua các cơ quan
đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài thi hành mọi biện
pháp để công dân Việt Nam được hưởng đầy đủ các quyền và lợi ích theo pháp luật
nước tiếp nhận, điều ước quốc tế mà Việt Nam và nước đó ký kết hoặc tham gia,
hoặc theo tập quán quốc tế. Khi các quyền và lợi ích chính đáng của công dân Việt
Nam bị xâm phạm, cơ quan đại diện có nghĩa vụ thi hành mọi biện pháp để khôi phục
những quyền và lợi ích chính đáng đó. Trách nhiệm Nhà nước trong việc thực hiện
mọi biện pháp cần thiết phù hợp với pháp luật sở tại, luật pháp và thông lệ quốc
tế và pháp luật Việt Nam bảo hộ quyền và lợi ích của công dân Việt Nam ở nước
ngoài được quy định tại hầu hết văn bản pháp luật quan trọng của Nhà nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam, như: Hiến pháp năm 2013 (Khoản 3, Điều 17), Luật Quốc tịch
Việt Nam năm 2008 (Điều 5); Luật Cơ quan đại diện nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ở
nước ngoài năm 2009 (Điều 8 và Điều 9), Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc
ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2020...
Đối với tình huống
cần phải bảo hộ công dân thì nhiều biện pháp nghiệp vụ đã được các cơ quan đại
diện chủ động tích cực triển khai, tiến hành hiệu quả. Trong đó có các hoạt động
như: Trao đổi với cơ quan chức năng nước sở tại tạo thuận lợi cho công dân Việt
Nam sinh sống, học tập, làm ăn hợp pháp; hỗ trợ, giúp đỡ đối với trường hợp gặp
khó khăn; vận động hội đoàn người Việt Nam hỗ trợ tích cực cho công tác bảo hộ
công dân; cử cán bộ tham dự các phiên tòa để bảo vệ quyền lợi cho người lao động
và yêu cầu phía người sử dụng lao động, công ty bảo hiểm bồi thường cho công
dân khi gặp tai nạn lao động; đưa tin khuyến cáo công dân và cử cán bộ trực điện
thoại đường dây nóng 24/7 kịp thời hỗ trợ trong những tình huống khủng hoảng.
Đưa người lao động
Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài bắt đầu được thực hiện từ những năm 80 của thế
kỷ trước. Chính sách này góp phần mang lại lợi ích cho quốc gia, dân tộc và
mang lại nhiều giá trị thiết thực cho chính người lao động. Việc đưa người lao
động đi làm việc ở nước ngoài còn góp phần xóa đói, giảm nghèo cho một bộ phận
người lao động ở vùng khó khăn như nông thôn, miền núi và ven biển. Bên cạnh
đó, chính sách thiết thực này còn đem lại nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho đất nước,
góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế; đồng thời cũng là điều kiện để
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Theo thống kê của
cơ quan chức năng, trong 10 năm qua (2012-2022), mỗi năm Việt Nam đã giải quyết
việc làm bình quân cho khoảng 1,5-1,6 triệu lao động trong và ngoài nước, số
lao động ngoài nước giải quyết được khoảng 10% số này. Riêng năm 2022 đã giải
quyết khoảng 80.000 người lao động ra nước ngoài. Mỗi năm bình quân người lao động
và chuyên gia gửi về nước với số tiền ước tính khoảng 10 tỷ USD.
Đối với người lao
động đi làm việc ở nước ngoài, được nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật, ngoại
ngữ, tiếp thu những công nghệ tiên tiến, tác phong làm việc công nghiệp, hình
thành nên đội ngũ lao động có trình độ tay nghề, chuyên môn cao. Sau khi kết
thúc hợp đồng lao động có thể đạt được tối thiểu bậc thợ trung bình, phần lớn
trong số họ có tay nghề vững vàng, đây là điều kiện để đáp ứng các yêu cầu của
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Từ những kết quả,
lợi ích thiết thực nêu trên, càng thêm khẳng định những nỗ lực của các cơ quan
chức năng, chính quyền địa phương và những tổ chức, cá nhân liên quan trong hoạt
động đưa công dân Việt Nam đi lao động ở nước ngoài. Đây cũng là minh chứng bác
bỏ những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch phủ nhận chính
sách của Đảng, Nhà nước ta về công tác đưa người lao động và chuyên gia Việt
Nam đi làm việc, lao động ở nước ngoài.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét